7 điểm sáng trong 9 tháng năm 2023
Trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức hơn là thuận lợi ở cả trong và ngoài nước; báo cáo nghiên cứu đã chỉ ra 7 điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam trong 9 tháng đầu năm.
Thứ nhất, nhiều chính sách tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế được ban hành. 9 tháng đầu năm, trong bối cảnh kinh tế thế giới đối mặt với nhiều thách thức cùng với những khó khăn nội tại; Quốc hội, Chính phủ đã ban hành một loạt các chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho nhiều lĩnh vực như y tế; thị trường vốn, đất đai, bất động sản, xây dựng, du lịch, visa; tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, sản xuất - kinh doanh.
Với chính sách tài khóa, Chính phủ ban hành Nghị định 12/NĐ-CP ngày 14/4/2023 về giãn hoãn thuế, tiền thuê đất, giảm một số thuế, phí năm 2023; Quốc hội đã quyết nghị giảm 2% thuế VAT trong 6 tháng cuối năm theo đề xuất của Chính phủ; Nghị định 36/2023/NĐ-CP ngày 21/6/2023 về gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt và Nghị định 41/2023/NĐ-CP giảm 50% lệ phí trước bạ đối với ô tô sản xuất trong nước trong 6 tháng cuối năm; cùng với nhiều quyết nghị thúc đẩy đầu tư công. Tổng giá trị các gói hỗ trợ tài khóa này khoảng gần 200.000 tỷ đồng, với giá trị thực chi khoảng 78.000 tỷ đồng.
Đối với chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã 4 lần giảm lãi suất điều hành (ở mức từ 0,5-1,5%) nhằm giảm lãi suất cho vay, góp phần tăng khả năng tiếp cận và cung cấp vốn cho nền kinh tế. NHNN đã ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN cho phép cơ cấu lại nợ, giãn hoãn nợ, không chuyển nhóm nợ (nhằm kiểm soát nợ xấu, tăng khả năng tiếp cận vốn cho người dân, DN) và Thông tư 03/2023/TT-NHNN (sửa đổi Thông tư 16/2021) nới lỏng một số điều kiện về cho vay, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) của các tổ chức tín dụng, góp phần tháo gỡ khó khăn hiện tại của thị trường TPDN. Cùng với đó, gói tín dụng 120 nghìn tỷ đồng của 4 Ngân hàng Thương mại (NHTM) lớn cho vay nhà ở xã hội với lãi suất ưu đãi, thấp hơn 1,5-2%, gói tín dụng 15 nghìn tỷ đồng cho vay lĩnh vực lâm và thủy sản, với lãi suất thấp hơn từ 1-2%/năm so với mức lãi suất thị trường, đang được triển khai... Thông tư 10/2023/TT-NHNN ngày 23/8/2023 về việc ngưng hiệu lực thi hành một số điều khoản của Thông tư 06/2023/TT-NHNN ngày 28/06/2023 nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn, nhất là lĩnh vực bất động sản...
Thứ hai, lĩnh vực dịch vụ duy trì đà tăng trưởng, là động lực chính của nền kinh tế. Cụ thể, lĩnh vực dịch vụ tăng 6,32% so cùng kỳ, tiếp tục là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế trong 9 tháng đầu năm, đóng góp 2,78 điểm % và 65,6% trong mức tăng trưởng chung (4,24%). Trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước tăng 9,66%, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước cho thấy các hoạt động dịch vụ, tiêu dùng tiếp tục phát triển ổn định, du lịch nội địa và quốc tế, tài chính - ngân hàng… tăng trưởng khá dù chưa trở lại mức trước dịch COVID-19.
Thứ ba, lạm phát cơ bản ổn định dù còn chịu áp lực gia tăng. CPI bình quân 9 tháng tăng 3,16% so cùng kỳ (tăng nhẹ so với mức 3,1% của 8 tháng năm 2023 nhưng giảm mạnh từ mức tăng 4,89% hồi đầu năm). Lạm phát cơ bản bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 4,49% so cùng kỳ (tiếp tục giảm nhẹ từ mức 4,57% của 8 tháng năm 2023 và giảm từ mức tăng 5,21% hồi đầu năm).
Thứ tư, thu hút vốn FDI tăng trưởng khá, giải ngân FDI tăng nhẹ. Lũy kế 9 tháng đầu năm, tổng vốn FDI đăng ký ước đạt 20,21 tỷ USD, tăng 7,8% (so với mức giảm 15,3% của cùng kỳ năm trước), giải ngân vốn FDI đạt 15,91 tỷ USD, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước (cải thiện hơn so với mức tăng 0,5% trong 6 tháng đầu năm), trong bối cảnh dòng vốn FDI toàn cầu dự báo giảm khoảng 4% năm 2023. Thu hút FDI phục hồi nhờ sự gia tăng đầu tư của một số đối tác lớn như Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản; các chính sách hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn cho DN của Chính phủ trong thời gian qua, giúp cải thiện phần nào môi trường đầu tư - kinh doanh; triển vọng tăng trưởng kinh tế trong trung - dài hạn là tích cực cùng sự tham gia ngày càng sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu với nhiều FTAs được ký kết và có hiệu lực, giúp Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn đối với dòng vốn FDI trong quá trình định hình lại đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thứ năm, giải ngân đầu tư công tăng tích cực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong 9 tháng đầu năm, vốn đầu tư thực hiện từ vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 415,5 nghìn tỷ đồng, bằng 57,4% kế hoạch năm, tăng 23,5% so với cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 bằng 56% và tăng 20,3%). Nếu so sánh số tuyệt đối, giải ngân đầu tư công tăng ròng hơn 80.000 đồng so với cùng kỳ năm trước, là con số đáng ghi nhận. Mặc dù vậy, mục tiêu giải ngân 95% gần 800 nghìn tỷ đồng (tăng khoảng 30% so với năm 2022) vẫn đang là một nhiệm vụ rất khó khăn, đòi hỏi các đơn vị từ trung ương tới địa phương cần tiếp tục nỗ lực và tập trung cao nhất để có thể tháo gỡ vướng mắc, tiếp tục đẩy mạnh giải ngân đầu tư công và Chương trình phục hồi 2022-2023 từ nay đến cuối năm.
Thứ sáu, các cân đối lớn được đảm bảo, lãi suất giảm dần, tỷ giá tăng trong tầm kiểm soát. Lãi suất huy động giảm mạnh trong 9 tháng đầu năm, giảm 2-2,5% so với đầu năm, tương đương mức trước dịch COVID-19, trong bối cảnh NHNN 4 lần hạ lãi suất điều hành và trần huy động tiền gửi ngắn hạn; thanh khoản hệ thống ngân hàng được cải thiện (tổng phương tiện thanh toán hết 9 tháng đầu năm tăng 4,75%, huy động vốn tăng 5,8% trong khi tín dụng tăng khá thấp (5,91%) so với đầu năm. Lãi suất cho vay giảm từ 1-2% so với đầu năm trong bối cảnh lãi suất đầu vào giảm và Chính phủ, NHNN yêu cầu giảm lãi suất cho vay từ 1,5-2%.
Tỷ giá tăng nhưng trong tầm kiểm soát mặc dù chịu nhiều áp lực từ bối cảnh thị trường quốc tế khi đồng USD tiếp tục tăng giá do FED còn tăng lãi suất đến cuối tháng 7/2023 vừa qua (có thể tăng tiếp 1 lần nữa vào tháng 11/2023) và còn neo ở mức cao. Đến cuối tháng 9/2023, tỷ giá liên ngân hàng tăng 2,9%; tỷ giá trung tâm tăng 2% so với đầu năm và dự báo tăng khoảng 3-3,5% cả năm. Khả năng này là nhờ các yếu tố: đồng USD dự báo chỉ còn tăng nhẹ từ nay đến cuối năm, rồi đi ngang khi FED có thể chỉ tăng lãi suất 1 lần nữa, rồi dừng lại; NHNN tiếp tục thực hiện chính sách điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt, trong đó tiếp tục tăng cường sử dụng các công cụ trên thị trường mở (OMO) nhằm tận dụng thanh khoản dồi dào, thu hẹp chênh lệch lãi suất USD – VND, góp phần cân bằng hơn giữa lãi suất và tỷ giá (từ giữa tháng 9 đến nay, NHNN đã liên tiếp hút ròng gần 94.000 tỷ đồng thông qua phát hành tín phiếu); quan hệ cung - cầu ngoại tệ cơ bản ổn định khi cán cân thương mại thặng dư (20-22 tỷ USD), kiều hối dự báo vẫn tăng khá, du lịch quốc tế phục hồi mạnh...
Thứ bảy, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả tích cực, vị thế và uy tín của Việt Nam tiếp tục được nâng cao. Năm 2023, hoạt động ngoại giao, hội nhập quốc tế tiếp tục được quan tâm đẩy mạnh với nhiều chuyến thăm của các lãnh đạo cấp cao các nước. Thông qua các cuộc gặp này, Việt Nam và các đối tác tiếp tục thắt chặt và nâng tầm quan hệ, tăng cường hợp tác ngoại giao, kinh tế, thương mại và đầu tư, góp phần quan trọng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam. Đặc biệt, từ ngày 10/9/2023, hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ đã chính thức nâng cấp quan hệ lên mức Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững, từ đó mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế, thương mại, chuyển đổi số, năng lượng, khoa học - công nghệ và giáo dục – đào tạo trong thời gian tới.
3 kịch bản tăng trưởng năm 2023 và dự báo năm 2024
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV dự báo tăng trưởng và lạm phát cả năm 2023 và 2024.
Cụ thể, về tăng trưởng GDP cả năm 2023, có 3 kịch bản chính gồm: kịch bản tiêu cực đạt 4,5-4,8% nếu tăng trưởng GDP quý IV chỉ đạt 5,2-6,3%; kịch bản cơ sở đạt 5-5,2% thì GDP quý IV cần tăng trưởng 6,9-7,7%; kịch bản tích cực đạt 5,3-5,5% đòi hỏi sự quyết tâm và nỗ lực hơn nữa của Chính phủ, Bộ, ngành, địa phương cùng sự đồng lòng của doanh nghiệp và người dân.
Ngoài ra, nếu bối cảnh quốc tế thuận lợi và trong nước phát huy tốt cả các động lực tăng trưởng truyền thống và mới, tăng trưởng GDP quý IV có thể đạt 9,3-10,6%, giúp GDP cả năm 2023 tăng trưởng 5,8-6%, như Thủ tướng Chính phủ đã định hướng phấn đấu.
Triển vọng năm 2024 , với đà phục hồi hiện tại cùng với sự quyết liệt của lãnh đạo các cấp, của doanh nghiệp và người dân, và đà “tốt lên” của kinh tế thế giới, dự báo kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi tốt hơn, có thể tăng trưởng 6-6,5% (kịch bản cơ sở).
Về lạm phát, dự báo CPI bình quân 2023 vẫn trong tầm kiểm soát, tăng khoảng 3-3,5% nhờ những điều kiện quốc tế và trong nước cải thiện như xu hướng hạ nhiệt của giá cả hàng hóa và lạm phát toàn cầu; giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý tăng thấp hơn dự kiến (dưới 5%), tỷ giá tăng nhưng trong tiên lượng và tầm kiểm soát, lãi suất giảm dần, phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ ngày càng được quan tâm cải thiện... Trong năm 2024 , với đà phục hồi kinh tế dự báo tốt hơn, cung tiền và vòng quay tiền cải thiện, trong khi lạm phát và giá cả thế giới (nhất là giá năng lượng) giảm nhưng còn ở mức cao, dự báo CPI bình quân của Việt Nam năm 2024 sẽ tăng khoảng 3,5-4%.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 2023 như phân tích ở trên, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đã đưa ra 7 kiến nghị, bao gồm:
Một là, tiếp tục nghiêm túc thực hiện tốt Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 6/1/2023; các chỉ thị, nghị định, nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, nhất là các quyết sách gần đây như đã nêu; tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế, chủ động phân tích, dự báo để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp; tiếp tục bình ổn, lành mạnh hóa các thị trường (chứng khoán, TPDN, BĐS, xăng dầu…) nhằm củng cố niềm tin của nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân.
Hai là, các bộ, ngành, địa phương cần quyết liệt đẩy mạnh triển khai Chương trình phục hồi 2022-2023, các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, đầu tư cơ sở hạ tầng; đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hồ sơ dự án, giải phóng mặt bằng, cung ứng nguyên vật liệu, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong giải quyết các thủ tục về xây dựng, đầu tư...
Ba là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó cần chú trọng các động lực tăng trưởng truyền thống, đồng thời khai thác hiệu quả các động lực tăng trưởng mới.
Trong đó, với động lực tăng trưởng truyền thống, cần đẩy mạnh giải ngân đầu tư công; kích cầu tiêu dùng nội địa; quan tâm thúc đẩy tăng trưởng của các đầu tàu nền kinh tế, nhất là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, qua đó thúc đẩy liên kết vùng…
Mặt khác, việc phát hiện, khai thác hiệu quả những động lực tăng trưởng mới cũng hết sức quan trọng, đặc biệt là các động lực quan trọng như kinh tế số, năng suất lao động và năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP), phát triển mạnh hơn khu vực kinh tế tư nhân (nhất là đầu tư tư nhân đang tăng thấp), hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế, đẩy mạnh liên kết vùng, tăng trưởng xanh gắn với chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, và nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Cần đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế (nhất là các luật đất đai, nhà ở, kinh doanh BĐS, TCTD, đấu thầu…), bao gồm cả tháo gỡ rào cản, chú trọng khâu thực thi và phối hợp chính sách; quan tâm xây dựng thể chế cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng…
Bốn là, tiếp tục nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách, đặc biệt là giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm tiếp tục giảm lãi suất, bình ổn tỷ giá, giá hàng hóa thiết yếu và các thị trường tài chính, xây dựng, BĐS, lao động…; góp phần kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng bền vững. Theo đó, cần tổ chức thực hiện hiệu quả các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách khác cũng như chính sách hoàn thuế VAT…
Năm là, quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực từ suy giảm xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng. Đề làm điều đó, cần khai thác tốt hơn các FTAs đã ký kết, thực hiện hiệu quả hơn công tác xúc tiến thương mại, du lịch, kết nối cung cầu, đa dạng hóa hàng hóa và thị trường xuất khẩu, đầu tư; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ kịp thời các vướng mắc về qui định phòng cháy - chữa cháy, cung ứng điện, đẩy lùi tình trạng sợ sai, sợ trách nhiệm, đùn đẩy…; rà soát, cập nhật và điều chỉnh cơ chế, chính sách thu hút FDI trong bối cảnh áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu theo hướng tập trung vào cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các vấn đề về thể chế, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực; quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc, rào cản lớn đối với doanh nghiệp hiện nay, nhất là về pháp lý, thị trường đầu ra, tiếp cận vốn (đặc biệt là khả năng tiếp cận và năng lực hấp thụ vốn) và lao động.
Sáu là, chú trọng cơ cấu lại nền kinh tế nhằm thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn. Việc này đã bị chậm trễ thời gian qua do phải ưu tiên giải quyết những việc cấp bách trước (dịch bệnh, thiên tai, suy giảm tăng trưởng…); nay cần quan tâm hơn và kiên trì, nhất quán thực hiện như nhiều quốc gia đang làm sau dịch bệnh và xung đột vũ trang…
Bảy là, quan tâm xây dựng chiến lược, giải pháp cụ thể để tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế, của các ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp Việt Nam.